![]() |
Chương
I
THÔNG
TIN
|
1.1 Sự phát triển và yêu cầu
1.2 Thông tin - Mã hóa thông tin1.2.1 Mã và bảng chữ1.3 Cách truyền thông tin trên đường dây
1.2.2 Nguyên tắc mã hóa
1.2.3 Mã Baudot và mã BCD
1.2.4 Mã ASCII
1.2.5 Mã EBCDIC
1.2.6 Sự truyền trên đường dây1.3.1 Dãy đồng bộ và không đồng bộ
1.3.2 Mạch dữ liệu đồng bộ
Hình 1.1 Sự phát triển công nghệ và tốc độ truyền.
Hình 1.1 và 1.2 cho ta sự phát triển về công nghệ và tốc độ truyền.
1.1.1.1 Mạng cục bộ (LAN):
Hơn 90% mạng LAN dựa
trên chuẩn được định
nghĩa của Ethernet/ IEEE 802-3 năm 1982 và
Token Ring/ IEEE năm 1985 với tốc độ
truyền đạt được 10 và
16 (hoặc 4) Mbps. Chỉ riêng về mặt số
lượng người sử dụng
trong mạng có bị giảm đi. Chỉ
trong vài năm số lượng người
sử dụng trong mạng Ethernet từ hơn
300 giảm xuống còn khoảng 30-40 và
có xu hướng đứng lại
ở đó.
Cuối những
năm 80, một tiêu chuẩn LAN mới
được thiết lập: mạng FDDI (Fibre
Distributed Digital Interface), cơ sở trên đồ
hình vòng sợi quang với tốc
độ truyền 100Mbps.
Hình 1.2 Sự phát triển tốc độ truyền.
Tuy nhiên FDDI không dễ dàng thiết lập vì các phần tử phần cứng giá thành đắt. Hơn nữa với băng thông 100 Mbps sẽ thường sử dụng cho một phần ứng dụng mạng. Như vậy cũng chưa đủ thật sự cho ứng dụng đa phương tiện (Băng thông tối thiểu 1node trong mạng đa phương tiện là 10 Mbps như vậy nó chỉ cho phép mạng tối đa là 10 thuê bao đồng thời dùng). Chuẩn IEEE 802.12 LAN (Fast Ethernet, Fast Token Ring) được đưa vào sử dụng từ năm 1994, nó cho phép mạng Ethernet hoặc Token Ring truyền với tốc độ 100 Mbps.
1.1.1.2 Truyền dữ liệu ở cự ly xa (WAN):
Trong WAN không giống như trong LAN, tốc độ truyền không ngừng tăng theo thời gian. Mười năm về trước, nó được bắt đầu với đường nối Datex-P có tốc độ 2,4Kbp; 4,8Kbps. Ngày nay với mạng chuyển mạch gói có thể cung cấp cho ta tốc độ truyền 64Kbps và 2Mbps.
Hình 1.3 Sự phát triển của tốc độ truyền dữ liệu mạng diện rộng.
Những năm cuối của thập niên 80 bắt đầu sự truyền phân phối giữa tín hiệu liên tục (analog) và tín hiệu số trên cơ sở rộng hơn: ISND (Intergrated Service Digital Network). Một đường cơ sở ISDN cho băng thông 64*2Kbps có nghĩa là 128Kbps (2 kênh rộng 64Kbps đó có thể dùng cho 1 kênh 128Kbps). Ở bộ phân kênh (multiplexer) sơ cấp S2M liên kết 30 kênh sử dụng, một số kênh băng rộng người sử dụng có thể liên kết thành 1 kênh dữ liệu chung (Hyper-ISND).
Hình 1.4 Cuộc cách mạng truyền dữ liệu xa.
Như vậy đường
dây S2M có thể chia thành 2 kênh dữ
liệu có 896Kbps cho mỗi kênh và theo
đó mỗi kênh có 2 đường
nối tiếng nói với mỗi đường
có 64Kbps. Ở giai đoạn bắt đầu
chuẩn hóa ISDN, một đường
truyền có 64Kbps là thích hợp,
nhưng suốt thời gian dài chuẩn
hóa vấn đề trở nên phức
tạp vì chúng ta thấy rõ rằng
làm việc trên cơ sở băng
thông 64Kbps không đáp ứng được
yêu cầu điều khiển đang ngày
càng phát triển của hệ thống
liên lạc. Do đó bước tiếp
theo là phát triển hệ thống truyền
băng rộng. Những hệ thống với
băng thông hơn 2Mbps được biết
đến như: hệ thống chuyển tiếp
frame (Frame Relay), hệ thống mạng cho thành
phố lớn (MAN: metropolital area network), mạng
B-ISDN/ATM, kênh cáp quang (F). (Frame Relay, MAN: metropolital
area network, B-ISDN/ATM, Fiber Channel). Năm 1988 CCITT đã
chọn ATM (Asynchronnous Tranfer Mode) là phương
pháp truyền chính cho mạng B-ISDN. Sự
phát triển ATM và B-ISDN qua 2 năm đạt
được nhiều hứa hẹn trong
truyền thông, như vậy nó đã
trở thành 1 dạng hiện tại để
truyền thông tin trong thời gian tới.
1.1.2.
Băng thông trong thông tin liên lạc ngày
nay:
Hàng chục năm, quá trình ứng dụng dữ liệu chủ yếu giữ trong dạng thông tin ký tự, chỉ mãi đến đầu những năm 90, khả năng ứng dụng đa phương tiện được đưa vào trong các hệ thống máy tính. Thông tin bây giờ ở trong dạnh hình ảnh, văn bản, video và âm thanh, tiếng nói, tài liệu (cơ sở dữ liệu cho đa phương tiện). Thêm vào đó công nghệ thông tin mới được dùng vào thông tin liên lạc (như video hội nghị). Mạng phải đáp ứng những yêu cầu mới đó.
1.1.2.1 Truyền tiếng nói:
Nếu sự truyền tiếng nói chỉ giới hạn ở băng tần 4KHz phù hợp với băng thông trong đường điện thoại (vì tiếng nói có tần số 200 3800Hz). Khi đổi sang tín hiệu số (PCM) băng thông yêu cầu truyền được với dung lượng 64Kbps. Phù hợp với định luật lấy mẫu (fs > 2fmax) với fmax = 4000 Hz cần có 4000 * 2 = 8000 lần lấy mẫu trong 1 giây. Ta dùng mã PCM với n=8 ta có được 256 giá trị biểu diễn. Kết quả dòng các bit cần truyền sẽ là 8000 * 8 bit = 64Kbps.
1.1.2.2 Truyền ký tự:
Trong các hệ thống máy vi tính, màn hình của nó biểu diễn 40 dòng và mỗi dòng có 80 ký tự. Mỗi ký tự được mã hóa với 8 bits. Như vậy toàn màn hình có 25,6Kbits dữ liệu. Để truyền dữ liệu đó qua đường nối 9,6Kbps cần có 2,6 giây. Tuy nhiên đó chỉ là trường hợp đặc biệt khi cần truyền toàn bộ màn hình. Nếu như dữ liệu chỉ là 1 phần màn hình thì tốc độ chỉ cần 2,4Kbps đến 4,8Kbps là đủ.
1.1.2.3 Liên mạng LANs:
Ứng dụng thông tin liên mạng trong những năm qua được tăng đáng kể, yêu cầu băng thông truyền để nối giữa 2 mạng LAN có thể rất lớn. Sự đo đạt trên đường nối liên mạng cho thấy rằng tải của mạng tại lúc cao điểm có thể 25 lần lớn hơn so với thời điểm bình thường có tải thấp. Trong nhiều trường hợp, tỉ lệ phần trăm của tổng lưu thông cần thiết trên đường nối liên mạng là 10% có nghĩa là băng thông yêu cầu truyền khoảng 1-10Mbps, (nó phụ thuộc vào đồ hình của mạng: Ethernet, Token Ring hoặc FDDI) là đủ cho đường nối liên mạng.
1.1.2.4 Yêu cầu băng thông cho dịch vụ đa phương tiện:
Yêu cầu băng thông cho ứng dụng đa phương tiện ngày nay thay đổi trong khoảng 10Mbps đến 900Mbps (HDTV- High Definition Television - video).
Ở đây việc sử dụng quá trình nén và tối ưu hóa đóng một vai trò quan trọng. Ví dụ: để truyền tín hiệu video ta có thể thu nhỏ để chỉ truyền những phần thay đổi của ảnh mà thôi.
Hình
1.5a Hình 1.5bThông
tin liên lạc trong mạng LAN; sơ lược
sự lưu thông.
|
|
|
Video |
1 - 10 Mpbs 10 - 100 Mpbs |
Màu HDTV (CAD) |
1.1.2.4.1 Truyền thông tin video:
Trên màn hình có khoảng 1 triệu phần tử (điểm) và với mỗi điểm thường dùng 3 bytes (24 bit) để biểu thị (trong trường hợp ảnh màu). Điều đó có nghĩa là cần truyền 24Mbit. Dùng đường nối 64Kbps thì phải truyền trong 6 phút. Nếu dùng đường nối có tốc độ 155Mbps thì chỉ tốn 0,15 giây.
Hình 1.6 Sự phát hình và băng thông.
1.1.2.4.2 Truyền video:
Theo qui ước
với màn hình 500 dòng có thể
truyền với băng thông giữa
10 đến 90 Mbps, phụ thuộc vào giải
thuật nén thông tin. HDTV với màn
hình 1000-1200 dòng thì yêu cầu 90
900Mbps. Bảng sau cho ta quan hệ giữa băng
thông yêu cầu và mục đích
sử dụng.
|
|
|
Đa phương tiện hội nghị |
1 Mbps
1 - 10 Mpbs 10 - 100 Mpbs |
-
Hình ảnh: taking header cửa sổ.
- Hình ảnh cửa sổ nhỏ, ảnh chất lượng cao. |
Trong tương lai sự quyết định băng thông truyền là do những yêu cầu mức độ thời gian thực (real time). Hình vẽ 1-7 cho ta tốc độ truyền dữ liệu cho một hình ảnh động có thể biến đổi lớn.
Hình
1.7 Tốc độ truyền theo tỉ
lệ thay đổi của hình.
1.3 Những nhóm sử dụng mới:
Sự kết hợp của môi trường thông tin hiện đại với quá trình số hóa tạo ra một nhóm người sử dụng mới cho quá trình dữ liệu và cũng tạo ra yêu cầu mới cho thông tin dữ liệu. Trong lĩnh vực đào tạo và kinh doanh cũng làm tăng sự sử dụng thông tin đa phương tiện trên máy tính hiện nay.
Ví dụ: "Tele-teamwork" cho 1 số người sử dụng nối mạng với nhau cùng đồng thời làm việc trên 1 văn bản thông qua terminal của họ hoặc trao đổi cùng một vấn đề. Điều đó dẫn đến yêu cầu về giá thành hội nghị và lưu lại thời gian thông qua. Đó là suy nghĩ ốt để có thể tham dự mà không cần rời khỏi bàn. In từ xa, chữa bệnh từ xa và những bức fax màu chất lượng cao là những dạng khác.
Hình 1.8 Những nhóm ứng dụng trong thông tin dữ liệu.
Hình
1.9 Mạch truyền dữ liệu từ
A - B.
Trong sự trao
đổi thông tin giữa A và B, điều
quan trọng là những ký hiệu được
đọc và dịch thông qua một mạch
điện tử và được
biểu hiện với logic 2 trạng thái,
gọi là nhị phân. Thông tin này
được giữ bằng những
phần tử mang có 2 trạng thái:
băng hoặc bìa đục lỗ thì
biểu hiện trạng thái có hay không
có, còn trong phần tử nhớ
là một mạch dao động 2 trạng thái.
Thông thường ta biểu diễn nó
bằng phần tử 2 trạng thái 0 hoặc
1 và mỗi cột nó được
gọi là bit (một cột nhị phân).
Như vậy để truyền thông tin từ
A sang B ta truyền các phần tử nhị
phân nhờ kỹ thuật mã.
Mã
Baudot
Mã Baudot còn
được gọi là mã telegraphique
có 5 cột hoặc mã Alphabet quốc tế
no2 hoặc cũng còn gọi là
mã no2 của CCITT và nó
được biểu diễn như bảng
1.1.
Mã này được
dùng cho các mạng Telex. Với mã
có 5 cột (5 bit) cho phép ta có được
25 = 32 tổ hợp. Nếu dùng
nó để biểu diễn cả chữ
và số (26 chữ cái, 10 số)
thì không đủ. Vì vậy người
ta dùng 2 ký tự để thay đổi
sang 2 trạng thái: chữ và số.
Sau ký tự "chữ" tất cả mã
biểu diễn là chữ và sau ký
tự "số" các mã biểu diễn
là số. Như vậy với 5 cột
biểu diễn ta có được 30
x 2 = 60 tổ hợp.
Bảng 1.1 cho ta luật
của mã. Quy luật chủ yếu của
mã này được xây dựng
trên cơ sở tần số xuất
hiện của các ký tự mà không
theo nguyên tắc nào cả. Do đó
nó không theo thứ tự tăng
giảm của giá trị các cột nhị
phân và cũng không thuận tiện
khi sử dụng.
Bảng 1.1 Bảng
mã Baudot Mã
BCD (Decimal Codé Binaire)
Như ta thấy
ở trên, mã Baudot được
sử dụng 5 cột để biểu diễn,
do không đủ tổ hợp nên người
ta phải dùng 2 ký tự để
thay đổi chữ và số. Trong khi
truyền nếu sự thay đổi giữa
chữ và số không nhiều thì
hiệu quả trong khi truyền tốt hơn, nhưng
dù sao nó cũng còn những nhược
điểm như đã nói.
Người
ta dùng 6 cột (6 bit) để biểu diễn
mã. BCD là một trong những mã
đó. Trong mã BCD người ta dùng
6 cột để biểu diễn mã và
một cột để kiểm tra.
Dựa vào
hệ thống mã, tất cả các ký
tự đều có 6 cột và đương
nhiên nó có một số chẳn hoặc
lẻ cột có giá trị "1" và do
đó theo quy định ta có thể
tìm được sai của mã. Tất
cả các ký tự của mã đều
có dạng sau:
Bảng 1.3 đã
cho ta toàn bộ 64 tổ hợp của mã;
bit C dễ dàng tính được
(thường gọi là bit chẳn lẻ).
Ví dụ: với
qui ước kiểm tra chẵn
c = 1 với ký
tự A 110001: Số bit 1 trong ký tự
là 3 lẻ
Bảng 1.2 Mã BCD Năm 1963, phương
án đầu tiên được
đưa ra từ Mỹ và người
ta nhận biết với tên ASCII (American
Standard Code for Information Interchange). Tổ chức
tiêu chuẩn thế giới chấp nhận
loại mã này và cho phép sử
dụng rộng rãi và gọi là mã
no5 của CCITT.
Mã ASCII sử
dụng 7 cột (7 bit) có thể biểu diễn
128 ký tự. Tất nhiên nó gồm
thêm một cột để kiểm tra chẳn
lẻ. Bảng 1.3 chỉ cho ta các tổ hợp
của mã ASCII.
Người
ta dùng 2 cột đầu tiên để
mã hóa những ký tự điều
khiển. Ý nghĩa của các ký
tự điều khiển được
ta sẽ làm quen sau.
Bảng 1.3 Mã CCITT
n05 Bảng 1.4 Mã EBCDIC
{ ... , Ci, Ci-1,
... } Mỗi một ký
tự Ci được tạo thành
do n cột nhị phân dưới dạng
mã: Ci = (di, ... din) Ỵ
{0,1}
Sau khi chuyển các
ký tự dạng song song sang dạng nối
tiếp ta có: di-1, di, di+1
Các ký tự
sẽ là: Ci-1 Ci Ci+1
Nếu biểu diễn
bằng tín hiệu điện dạng nhị
phân ta có dạng:
Hình
1.10 Dãy dữ liệu dạng nhị
phân.
Nếu ta truyền
dãy dữ liệu, các ký tự
được truyền liên tiếp nhau
không có start và stop gọi là truyền
đồng bộ.
Hình
1.11 Tín hiệu đồng bộ.
Mỗi giây nguồn
sẽ cung cấp 1/T bit.
Dãy như vậy
người ta gọi là dãy đồng
bộ.
Đồng thời
ta cũng có thể cung cấp dãy tín
hiệu trong dạng khác. Người ta phát
từ nguồn từng ký hiệu riêng
lẽ, cách biệt nhau. Cách phát như
vậy người ta gọi là không
đồng bộ. để phân biệt giữa
các ký tự, thông thường
người ta thêm tín hiệu đầu
và cuối ký tự. Tín hiệu
khởi đầu gọi là tín hiệu
Start. độ dài của Start là 1 bit của
ký tự. Tín hiệu cuối cùng
của ký tự là Stop. Độ dài
của Stop là 1; 1,5; 1 bit tùy trường
hợp quy định cụ thể.
Hình
1.12 Thông báo dữ liệu không
đồng bộ.
Trong khi truyền
dữ liệu người ta chia đường
truyền thành 2 loại: đường
truyền nguyên lý (đường
truyền chính) và đường
truyền thứ cấp (đường
truyền phụ). Thông thường đường
truyền chính có lưu lượng
thông tin lớn gấp nhiều lần
đường truyền thứ cấp.
Dựa vào
cách cho phép truyền, người
ta chia mạch dữ liệu thành 3 loại:
A. Đồng
bộ
Vấn đề
đồng bộ là vấn đề quan
trọng đảm bảo cho ta truyền và
nhận đúng thông tin cần thiết.
Dù là truyền đồng bộ hay không
đồng bộ cũng cần phải có
sự đồng bộ khi nhận thông
tin.
Với mạch
truyền đồng bộ : mạch clock luôn
có với sự tồn tại với
chu kỳ T...
Với mạch
không đồng bộ sự đồng
bộ được thực hiện nhờ
tín hiệu Start của đầu từng
ký tự và tín hiệu Stop ở
cuối ký tự. Sự đồng
bộ các bit được thực hiện
nhờ clock địa phương có
cùng tần số gốc.
Trong bộ thu tín
hiệu START báo hiệu sự bắt đầu
của ký tự và cho phép những
mẫu của tín hiệu nhị phân trong
ký tự.
B.
Lưu lượng nhị phân, tốc độ
điều chế, nhịp độ truyền
Với sự
truyền đồng bộ, lưu lượng
nhị phân D của một đường
dữ liệu là số lượng
cực đại ký hiệu nhị phân
di chuyển qua đường truyền trong
1 giây.
C.
Chất lượng của sự truyền
Trong trường
hợp lý tưởng một tín
hiệu truyền hoàn hảo, tín hiệu
của ETCD ở bộ thu nhận được
hoàn toàn như nhứ từ terminal
nguồn. Trên thực tế điều
kiện lý tưởng đó khó
đạt được vì vậy cần
phải đo chất lượng của sự
truyền số liệu. Có nhiều chỉ
tiêu để đánh giá nó:
Trong trường
hợp đó, người ta có
thể định nghĩa chỉ số sai trên
một ký tự hoặc một khối. Sự
tương đối giữa việc phân
chia các khối lớn hay nhỏ CCITT quy
định một khối là 511 bit.
Chỉ số sai
được biến đổi trong khoảng
từ 10-4 đến 10-7 tùy
theo đường dây và lưu lượng
truyền v.v...
Trong các hệ
thống truyền có bảo vệ và
sửa sai chỉ số sai được
tính bằng các bit không được
sửa trong suốt cả thời gian.
Do đó, chỉ
số sai được dùng trong hệ
thống truyền không đồng bộ
với điều kiện tác dụng
đó với một tín hiệu chuẩn
đồng bộ.
1.2 Thông
tin - Mã hóa thông tin
Tất cả các
thông tin đều ở trong dạng ký
hiệu. Ý nghĩa chính xác của
các ký hiệu đó là cơ
bản nhưng nó là phần thuần
túy thỏa ước (quy ước)
giữa bộ phận phát và bộ
phận thu. Mọi trường hợp trên
thực tế, một thiết bị được
đưa vào truyền tức là
có sự liên hệ với những
thiết bị khác; mặt khác sự
thông báo trước hết cần
thiết có là một tác động
"vật lý" (ngay cả khi nó được
thực hiện bằng phần mềm). Người
ta đưa vào một bảng tương ứng
để định nghĩa những ý
nghĩa của ký hiệu (symbol) đó
và gọi là mã. Trong trường
hợp chúng ta quan tâm, thông tin được
phát và nhận qua một thiết bị
đầu cuối xử lý dữ
liệu ETTD (Equipement Terminal de Traitement de Données)
và ta gọi là thiết bị đầu
cuối (terminal), nó có thể là một
máy tính hoặc một terminal thông minh,
một terminal ở phần cuối mà
không có chức năng xử lý.
Trong thiết bị đầu cuối xử
lý dữ liệu, chúng ta chia chúng
ra làm hai phần thực hiện các
chức năng khác nhau: máy xử
lý (thông thường nó là
nguồn hoặc bộ phận thu dữ liệu)
và bộ kiểm tra sự liên lạc
(tổ hợp các bộ phận thực
hiện chức năng liên lạc). Phần
đặc biệt được thực
hiện ở đây là sự bảo
vệ chống sai số và sự tạo
ra các ký tự phục vụ cho phép
sự đối thoại giữa hai thiết
bị đầu cuối. Những thiết
bị kiểm tra liên lạc có thể có
hoặc không có bộ phận lọc (làm
sạch thông tin). Nguyên lý của các
terminal như chúng ta đã biết. Thiết
bị đầu cuối của mạch dữ
liệu (ETCD) là thiết bị có nhiệm
vụ đáp ứng những tín
hiệu điện được cung cấp
từ các thiết bị đầu
cuối để truyền đi. Chức
năng đó thông thường được
thực hiện bằng cách điều
chế và giải điều chế một
sóng mang trong hệ thống truyền có
điều chế. Người ta dùng
một thiết bị đó là modem (modulation
et demodulation). Thiết bị đầu cuối
của mạch dữ liệu (ETCD) còn có
chức năng thiết lập và giải
phóng mạch.
Hình 1.9 cho ta sự
liên hệ tổng quát một mạch truyền
số liệu từ terminal A (nguồn) đến
terminal B (bộ thu). Sự truyền có thể
thực hiện qua đường dây
dẫn, sóng VTD, Viba, vệ tinh...
1.2.1 Mã
và bảng chữ
Người ta định
nghĩa: mã là luật để nhận
biết thông tin cần phải biểu diễn
với dạng tồn tại nhị phân.
Mỗi một thông tin tương ứng
với chỉ một dạng nhị phân,
(nếu như tất cả các cấu hình
(dạng) mà mã cung cấp không được
sử dụng hết người ta gọi
mã đó là dư. Sự mã
hóa là thao tác để thực
hiện sự tương thích đó.
1.2.2 Nguyên
tắc mã hóa
Có rất nhiều
cách để định nghĩa một
mã, một tổ hợp của n bit thành
một ký tự dữ liệu về
nguyên tắc hoàn toàn không có
gì khác nhau. Người ta tạo cho
nó một quy luật đơn giản dựa
theo những tiêu chuẩn sau:
1.2.3 Mã
Baudot và mã BCD
Chúng ta chỉ xét
trong một số các ví dụ với
các mã thường được
sử dụng. Chúng ta có thể tìm
được trong những sách chuyên
môn nhiều sự phát triển và
giới thiệu nhiều loại mã tồn
tại trong máy. Ở đây ta chỉ
giới thiệu một số loại mã
thường hay gặp mà thôi.
c = 0 với
ký tự b 000110: Số bit 1 trong ký
tự là 2 chẳn
Mã này được
sử dụng nhiều trong các máy tính
ở thế hệ thứ 2.
1.2.4 Mã
ASCII (mã no5 của CCITT)
Sự không đầy
đủ của loại mã 6 cột làm
cho người ta nghĩ đến loại
mã giàu hơn có thể biểu diễn
được những ký tự
cần thiết như: ký tự điều
khiển hoặc chữ lớn, chữ
nhỏ chẳng hạn.
0
0
0
0
1
1
1
1
1.2.5 Mã
EBCDIC
Một loại mã khác
thường được dùng là
mã EBCDIC (Extended Binary Coded Decimal Interchange Code). Nó
là mã có 8 cột, không có cột
kiểm tra (như bảng 1.4).
1.2.6 Sự
truyền trên đường dây
Cho dù trong khi truyền
ta dùng loại mã nào, truyền đồng
bộ hay không đồng bộ, thông tin
truyền trên đường dây phải
tuân theo những quy luật sau:
1.3 Cách
truyền
1.3.1 Dãy
dữ liệu đồng bộ và không
đồng bộ
Giả sử rằng
terminal nguồn A cần chuyển sang terminal nguồn
B một tập hợp các ký tự
Tín hiệu biểu
diễn dạng nhị phân ta gọi là
thông báo dữ liệu và ký
hiệu d(t).
Khi truyền đồng
bộ để nhận biết giá trị
các thời điểm là 0 hay 1 cần
phải có tín hiệu clock gọi là
tín hiệu đồng bộ. Tín hiệu
đồng bộ cũng có chu kỳ là
T.
1.3.2 Mạch
dữ liệu
Ta giả thiết có
2 terminal A và B đồng thời có
thể là nguồn hoặc thu. Mạch dữ
liệu A-B là tổ hợp của các
cách cho phép trao đổi thông báo
dữ liệu giữa 2 terminal. Mạch như
vậy bao gồm cả các đường
vận chuyển và các mạch đầu
cuối (modem).
Hình
1.13 Các cách truyền:
Trong mạch một chiều
đơn giản thông tin chỉ có thể
truyền từ nguồn sang thiết bị
thu mà chiều ngược lại không
thể thực hiện được. Dữ
liệu được truyền từ
CPU sang máy in là ví dụ điển
hình.
Trong mạch 2 chiều
ngắt quảng dữ liệu từ hai
thiết bị đầu cuối có thể
truyền cho nhau nhưng không đồng thời.
Có nghĩa là nếu A truyền sang B
thì B nhận mà không được
phát và ngược lại.
Với mạch hai
chiều toàn phần thì A và B đều
đồng thời có thể phát
và thu. để thực hiện được
điều đó yêu cầu thiết
bị phải phức tạp hơn.
a - Mạch 1 chiều
(đơn giản)
b - Mạch 2 chiều
gián đoạn (half duplex)
c - Mạch 2 chiều
(duplex)
Hình
1.14 .