++ Chị em gái như trái cau non
(Tục ngữ)
Lâu lắm tôi mới về quê. Đàn
bà con gái khổ thế, vài trǎm cây số, xe cộ cà rịch
cà tàng đến đón khách trả hàng thì cũng đi chiều đến,
vậy mà không bạc cũng thành bạc. Điện thoại, mẹ tôi
nói: "Bận quá thì thôi", nhưng tôi biết mẹ
mong tôi về. Giỗ cha tôi nǎm nào cũng được đứa Nam
thiếu đứa Bắc. Lần này, Bắc - Nam về đủ, chẳng lẽ
lại thiếu đứa ở miền Trung là tôi? Vả lại, thị
thành ngột ngạt nóng rét, tôi cần thoát khỏi nó vài
ngày. Phải lấy lại cái bình thường cho một sợi nào
đó trong hệ thần kinh vì tôi cảm thấy nó không ổn lắm.
Bứt khỏi cái guồng quay cuộc sống thường nhật thật
không dễ.
Hai ngày để chuẩn bị cho
chuyến đi. Gạo, dầu, mắm, muối, tắm gội cho con, giặt
là cho chồng, trǎm thứ bà rằn. Biết là chẳng có tác
dụng gì vẫn dặn dò đủ thứ. "Anh thấm rồi, em cứ
yên tâm về". "Tuyệt đối đừng cho con lại gần
giếng". "Em đã có câu đó nǎm sáu lần rồi!".
"Anh phải đổi món cho con đấy!". "Đã bảo
nhớ rồi"... Trằn trọc, thấp thỏm, không biết có
còn quên dặn gì? Vừa thiu thiu ngủ, cái đồng hồ báo
thức nhà bên đã khua roong roong: Lâu nay chẳng biết
trách ai, tôi đâm ra hận cái ông nào đã phát minh cái
chuông báo thức ấy. Tiếng gì cứ như tiếng gươm giáo
chặt nhau trong đầu. Thà chọc béng một nhát vào ngực
còn hơn. Không bật đèn cũng biết 4 giờ. Thế là toi một
đêm. Tôi nằm nghe bố con, cậu cháu nhà họ chửi nhau
như róc nứa, chán, lại đến tiếng dao thớt, soong nồi,
bát đĩa. ở khu tập thể lại còn quay đít ra mặt đường,
chẳng sinh hàng sinh quán cũng uổng.
Mình phải kiếm lấy một xó
mà bốc ra. Làm cái nghề khốn khổ, cả vợ lẫn chồng,
thức đêm thức hôm, lại còn bị tra tấn thế này nữa,
nǎm này tháng khác, chịu không thấu. Cày cho hết báo
này tới đài kia, mà mấy nǎm rồi chưa được cái công
trình phụ. Tôi đâm quạu cả ông chồng làm thơ làm vǎn:
Nhà thơ cũng có, chỉ nhà ở là không. Bạn bè cứ
thúc. Nội, ngoại cứ mong. Hai quầng mắt tôi cứ sâu
thêm, đậm thêm sau mỗi đêm. Kem phấn thế nào cũng không
che nổi.
Làng tôi giống hệt một con
thuyền nằm giữa biển lúa. Cha tôi bảo cụ tổ của
chúng tôi lánh nạn về đây lập làng này. Ông ngờ
mình là cháu con họ Mạc, bởi khi ráp gia phả họ Chu
chúng tôi với họ Chu làng Thượng mà chúng tôi vẫn
còn là nhánh trên, lại không khớp. Không ai để ý lời
ông. Chỉ mình ông mang mãi trong lòng ý định tìm kiếm,
nhưng không đầu mối. Phút lâm chung, ông gọi riêng
tôi, dặn: "Nhắc - thằng - Trung - chuyện - họ - Mạc,
khéo... không - mồ - cha - không khóc... lại - khóc - đống
mối...". Và ông máy môi như còn định nói điều gì
đó, nhưng không kịp. Anh Trung dǎm nǎm mới về một lần,
nhà được mỗi ông con trai, thì sống tận Sài Gòn, lại
bị vợ giữ rịt chẳng tha cho về một mình, bởi sợ
cái lằng nhằng tình cũ nghĩa xưa... Hai bà chị làm cái
việc chỉ liên quan đến tiền.
Cô em út là giáo viên thì quá
môđéc. Tôi thương nó nhất nhà. Ai cũng bảo mặt mũi
hai đứa chúng tôi giống nhau như đúc. Hai chị em tôi lǎn
lóc dưới hầm mà cứ lớn phổng như khoai lang trồng đất
cát pha mầu mỡ. Chúng tôi dẫn nhau đi theo đoàn người
già trẻ con, sơ tán hết làng này sang xã khác. Từ khi tắm
ở giếng làng còn cởi truồng, chúng tôi đã phải quen
với tiếng gào rú của máy bay Mỹ, tiếng kêu khóc của
những gia đình có người thân bị bom;
Và chị Tâm khóc không ra tiếng
trong buồng vì mới cùng cả chi đoàn đi bới đất, bới
nhà, nhặt từng mẩu thịt, nắm tóc... Làng tôi ở gần
trạm giao liên. Ngày ngày từng đoàn xe tải dỡ hàng, bốc
hàng. Máy bay cứ nghiêng qua, ngó lại, có khi đạp bừa
dǎm ba trái. Vậy mà chẳng có mảnh đất nào bỏ hoang.
Cấy sáng trǎng, gặt sáng trǎng, trẻ con đội đất mà
lớn. Nhà tôi cũng một lần hứng đủ ba trái.
"Phúc nhà to bằng cái bình vôi - mẹ tôi thường nói
- nó tránh đúng cái hầm". Tôi còn nhớ như in cái cảm
giác sắp chết ngạt của hai lǎm nǎm trước. Từng tổ
kiến càng rụng xuống người, xâu vào cắn xé. Con út bảo:
"Em chẳng nhớ gì". Nó mới ba tuổi mà. Vừa bằng
cái phích, bây giờ đã là cô giáo, đã có chồng...
Tôi về đến cổng thì đã
nghe mấy trái cau non đang chuyện nhao nhát trong
nhà. Lại cả anh Trung về nữa. Mà về một mình.
- Nhà giáo và nhà báo được
miễn. Còn lại - mỗi vị một triệu. Nhất trí như ủy
ban chưa? Lâu không gặp, tôi nghe giọng chị Tâm tôi là
lạ, Hà Nội hơn, có gang có thép hơn.
"Hoan hô trưởng nữ. út nữ
này xin đa tạ thịnh tình của tỉ tỉ". út Thảo chắp
tay trước ngực, nháy tôi. Quỷ sứ chứ cô giáo gì mà
nói nǎng như bọn choai choai nghiện phim Hồng Kông. Thì
em nghiện thật chứ sao. Chị không thấy họ giỏi à? Ra
chợ xem, hàng Trung Quốc hơn nửa chợ!
Đêm, anh Trung nằm nhà
ngoài đốt thuốc là liên tục. Thỉnh thoảng có tiếng
dép lạt xạt. Chắc anh đi thắp hương. Có cái gì đó
khác lạ trong anh, tôi không dám hỏi. Mấy chị em tôi
chuyện rầm rì đến khuya. Chuyện làng chuyện xóm mà
nghe cứ như tiểu thuyết. Trước kia, chuyện cả làng
đi đào đá đỏ bỏ ruộng hoang rất ly kỳ. Bây giờ
chuyện hậu đá đỏ hay không kém. Chồng tôi mà về chắc
viết được cả pho. Nhiều chuyện cười xong, thấy muốn
khóc. Cả chuyện con út lấy chồng cũng vậy. Nó và cậu
Bảo yêu nhau, đã mấy nǎm - hai nhà đi lại. Đùng cái,
thôi nhau. Cả hai nhà ngẩn tò te. Vậy mà hai đứa tỉnh
queo. Rồi em đi lấy chồng, anh lấy vợ. Có thứ tình
yêu nào vậy chớ? Thịt cắt còn đau nữa là... Nó bảo:
"Bà cụ non ơi, phải yêu để kịp chán nhau trước
khi ra trường, chứ cứ như bà, hai nǎm cầm tay, bốn
nǎm mới sờ tóc, mất ǎn, mất ngủ dầu - hao - trǎng -
khuyết, để ra thân tàn ma dại à? Lỡ không lấy được
lại tự tử tự tiếc, rách việc!". "Khiếp, cô
giáo gì như mày..." Tôi nói chưa xong đã nghe nó
ngáy. Nó ngủ trông mới xinh làm sao. Nó là đứa tự buộc
chân mình bên gốc chuối cho chúng tôi yên bụng đi xa.
Mùi hương trầm đầy nhà, khiến
tôi nhớ cha tôi. Người thích đến nghiện ngập mùi
này. Có khi không kịp quấn để thắp, ông xoa bột lên
tay để hít hà.
Rễ hương tự ông rửa, phơi,
giã riêng bằng cái cối đá nhỏ. Chu hương ông cũng tự
tay chẻ, phơi trên cao. Thắp hương, đợi tàn ông mới
đứng dậy. Có việc ra khỏi nhà là ông đóng cửa, giữ
mùi thơm lại, thành thử chǎn, màn, quần áo, nhà chỗ
nào cũng mùi trầm. Đôi khi bây giờ tôi cũng làm vậy.
Đi làm về, mở cửa ra, thơm nức mũi, rất thích. Thế
là ngày mai cha ở nhà xi mǎng. Chắc là lạnh lẽo, cô
đơn, nhưng sẽ yên ổn hơn. Kín cổng cao tường, khỏi
lo đạo tặc quấy phá, người trần làm ô uế, thất lạc.
A, nhưng còn khói hương? Chắc sẽ khó vào được nơi
người! Có lẽ vì thích mùi trầm quá mà cụ đặt tên
chúng tôi là Thơm, Thảo...
Tôi vẫn không ngủ được. Lại
sắp hết một đêm nữa. Ngoài kia anh Trung cũng không ngủ.
Tôi chỉ biết mang máng rằng vợ chồng anh trục trặc,
lại vào cái lúc đã xế chiều. Con Hiền tốt nghiệp
xong không chịu nhận công tác, tha về một anh chàng vô
công rồi nghề, hai đứa suốt ngày nằm đườn đưỡn,
xem ti-vi, nghe nhạc. Thằng Dũng rớt đại học, đua đòi
hút sách. út Thảo mắng trộm với tôi: "Đi ra, hò
hét lính tráng được, thế mà về nhà có mụ vợ với
hai đứa ranh con lại không dạy nổi. Cứ ném về đây
cho em, trị trắng xương, ngoan liền". "Có phải
đơn giản như em nghĩ!". "Cứ cố làm nó rối rắm
làm gì. Làm khổ nhau cho lắm vào rồi cũng ra đất ra
nước cả". "ừ, em cũng có lý. Mà sao chị vẫn
thấy lo lo cho em". "Em chẳng khổ đâu. Tiền bạc
có chồng kiếm, dạy về - quǎng mình xuống đệm, bật
quạt, gọi ǎn thì dậy ǎn. Sau này có con - nuôi vú
em". Cái con, cứ bộp bạp thế mà lại mau nước mắt.
Anh Trung ốm sơ sơ, nó khóc như cha tôi mất...
*
* *
- Chị Thơm ơi, về thôi. ở
đây, chị nghe cánh thợ nói tục không quen đâu - Thảo
gọi tôi - Chị em xem cái nghĩa địa làng mình giờ sang
không? Y như cái thành phố, nhỉ? Cũng nhà tầng, tường
bao, tím vàng xanh đỏ. Toàn dân đi làm ǎn xa gửi tiền
về xây đấy. Ai chưa xây được là như ngồi trên chảo
rang. Người chết cũng tranh mặt đường. Chưa chết đã
tranh đất xây mộ...
- Kể cũng hay. Bây giờ lại
có cái thành phố của người chết! Giá có thật một
cái chợ mà người sống người chết gặp nhau được
như trong truyện thì hay nhỉ?
Dường như không thèm chấp
cái lối nghĩ ngợi vẩn vơ của tôi, Thảo im lặng bước.
Cái bím tóc mập mà đen lánh vắt qua vắt lại trên cặp
mông tròn đầy. Cả nhà, mỗi mình nó có mái tóc đẹp
thế, càng cắt lại càng nhanh dài. Chả bù cho tôi, nuôi
thế nào cũng chỉ được như cái đuôi bò, thành thử cứ
phải đến thợ uốn tóc.
*
Thế là xong xuôi mọi việc.
Coi như ổn được một bề.
Rồi cũng phải chǎm cho bọn
trẻ về quê, để còn biết cái gốc gác của mình. Với
lại để bà cháu, dì cháu ríu rít với nhau, kẻo nữa lại
nhìn nhau như khách. Mẹ tôi dạo này trông lạ hẳn đi.
Cái vẻ tinh tướng không hiện rõ trên mặt nữa. Tóc
bà như nhiều sợi bạc hơn, từng lời nói cũng không
ném choang choang. Tôi tính soạn sửa để sáng mai đi sớm
thì mẹ tôi gọi. Đợi đông đủ một lát, bà nói, giọng
nghèn nghẹt:
- Tôi có chuyện ni phải nói
cho út và cả nhà biết:
O đào Vân ốm nặng lắm, chắc
không qua...
Thì có can hệ gì tới chúng
tôi mà bà có vẻ quan trọng thế?
Bao nǎm nay nhà này có thấy nhắc
đến bà già tội nghiệp ấy đâu? Cái nghề hát bà đã
bỏ hơn bốn chục nǎm rồi mà cái nghiệp vẫn chưa hết.
Nhà vǎn hóa huyện đưa người xuống dựng bà dậy nằn
nì để học hát. ốm lên ốm xuống mà cũng bò dậy, dạy
các o múa hát, mà như sống lại, đôi mắt già bỗng
lóng lánh. Có kẻ ác miệng dèm: "Sắp xuống lỗ
còn lắm chuyện". Bác chẳng sợ, cứ hát, cứ múa,
còn lên sân khấu, đi hội diễn... ấy là tôi nghe cô bạn
phóng viên kể thế!
Chẳng lấy được người tử
tế, bà chịu gãy gánh nửa đường, không kịp có nổi
mụn con mà ru, đành ru nhờ con thiên hạ, vậy mà không
chịu đi bước nữa.
Nổi tiếng khắp vùng một thời
về thanh, sắc; lại biết lắm điệu nhiều lời, cuộc
hát nào có đào Vân là không khí khác hẳn. Cha tôi là
thầy dạy hát của bà, là ông bầu của gánh hát, cũng
phải nể trọng. Cha tôi mê hát, lại được ông nội
tôi truyền nghề cẩn thận nên những ngón đàn điệu hát
của ông cả vùng không dễ mấy ai sánh kịp. Đến quan
phủ quan huyện cũng không dám cậy quyền cậy thế. Vậy
mà vật đổi sao dời, ông bỗng thành người khác hẳn.
Chúng tôi cũng chẳng biết đến cái quá khứ say người
của ông. Thỉnh thoảng tôi nghe ông ca ư ử như sợ ai
nghe: "Ngồi thử ngẫm trǎm huê (hoa) ai nuốm (nhuộm)...
ư... hư... một huê là riêng một ứ... sắc ứ... hương
(*)". Bây giờ thì tôi biết ông đã đau rứt rứt ruột
khi phải mang theo hàng chục làn điệu ca trù xuống đất.
Ông không dạy chúng tôi. Mà có dạy chắc gì chúng
tôi chỉ hát hò láo nháo là giỏi, có biết ca trù nó
hay nó đẹp thế nào đâu. Cứ thấy u hừ a hà thế thì
chán chết!
- út ơi! Bà Vân là mẹ đẻ
con đó... - mẹ tôi khó nhọc trút từng tiếng.
Chưa để chúng tôi kịp hoàn
hồn vì quả bom ấy, bà đã lấy hơi nói liền một mạch
như sợ sẽ không còn nói được:
- Gần ba chục nǎm rồi... mẹ
có tội với con, với bà Vân.
Mẹ hồi đó là cán bộ. Mẹ
buộc bà Vân phải bỏ làng mà đi cho đến ngày sinh con,
giao nó cho mẹ mới được về ở làng, với lời thề sẽ
mang điều bí mật ấy xuống mồ. út Thảo ngồi như bị
đóng đinh xuống phản. Dưới ánh điện, gương mặt nó
như nặn bằng sáp. Bất ngờ nó đứng vụt dậy, hét
lên một tiếng: "Mẹ!" rồi đâm bổ ra ngõ. Tôi
lao theo nó. Tôi rớt sau nó xa lắm mà vẫn nghe tiếng
khóc tức tưởi của nó.
Tôi chạy mãi về cuối làng.
Mệt quá, tôi dừng lại. Chợt nghĩ ra mình không nên có
mặt ở đó lúc này. Tôi quay về, người hững hụt, chân
thấp, mấy lần suýt ngã vào bụi, mặc dù đường làng
vẫn sáng điện hắt ra từ mỗi nhà. Đến ngõ, tôi nghe
anh Trung đang trách mẹ: "... Chuyện ghen tuông đàn
bà còn không dám trách, nhưng bấy nhiêu nǎm bà Vân sống
vò võ, hơn bảy mươi còn phải làm lụng nuôi mình, thế
mà mẹ chịu được!". Mẹ tôi phân bua: "Mẹ sợ
mất con Thảo. Mẹ thương nó như con đẻ, chǎm mớm cho
nó từng thìa nước cháo từ khi nó còn đỏ hỏn".
Với lại để bà Vân nuôi con, mẹ sợ bố anh đi lại
nữa. Bà Vân đẹp, lại hát hay, một thời đàn
ông ai cũng mê, nhưng bà ấy lại chỉ mê mỗi ông nhà
ta. Mà cứ như có ma, hễ bà Vân ốm đau là y như ông
ấy nằm liệt giường, cháo đút không chịu nuốt, dù
không ai báo cho ông biết. Mọi tin tức về bà Vân mình
giữ kín như bưng mà cũng vẫn rứa.
Tôi chợt nhớ cái trừng mắt
lạnh người của mẹ tôi khi trong bận ǎn tôi đã nhắc
tới bà Vân. Tôi cũng nhớ lại cái phút lâm chung cha
tôi nhìn tôi như cầu cứu. ánh mắt ông lạ lắm, như hờn
tủi xót xa, lại như bi phẫn, cam chịu đến tuyệt vọng.
Bao nǎm trời ông sống như cái bóng, vợ đảm con ngoan ríu
rít đầy nhà vẫn cô đơn. Tôi lần đầu tiên dám nhìn
thẳng vào gương mặt loang loáng của mẹ. Cứ ngỡ bà
khóc, hóa ra không phải. Đấy là ánh sáng phản chiếu từ
những khung kính treo đầy trên tường. Đúng là mẹ tôi
đã mất cha tôi từ khi phải mang cái bầu giả. Hay chưa
bao giờ bà có được ông?
Tự nhiên, cái ước mơ về một
ngôi nhà có công trình phụ hoàn hảo trong tôi không còn
ráo riết để bám như trước nữa, nếu không nói là biến
mất. Cả cái điều tôi định hỏi mẹ - rằng bây giờ
chúng tôi phải dậy dỗ con thế nào cho chúng nó sợ, cũng
vậy. Chẳng hiểu sao tôi bỗng thấy thèm được như út
Thảo. Tôi cảm thấy yêu quý nó hơn bao giờ. Và chuyến
về nhà ấy - tôi đã quên nhắc lời trǎn trối của cha
tôi cho anh Trung.
Tháng 7-79
Nguyễn Thị Phước